Ngành dệt may Việt Nam hiện nay đang đứng thứ 10 trong số những nước có
kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. tuy nhiên, trong cơ
cấu giá trị hàng dệt may thì tỷ lệ nhập khẩu chiếm phần lớn, Vì thế,
một trong những mục tiêu chủ yếu của ngành là từng bước tăng tỷ lệ nội
địa hóa, tăng giá trị gia tăng các sản phẩm dệt may.
Ði lên từ may mặc
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu và mang về cho đất nước nhiều ngoại tệ
của ngành
dệt may là sản phẩm may mặc sẵn, đây là sản phẩm cuối cùng của một chuỗi
lao
động liên hoàn từ: sản xuất bông, xơ đến kéo sợi, dệt - nhuộm - hoàn tất
vải đến
may mặc, trong đó muốn tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm cuối cùng thì
phải tác
động đến tất cả các khâu.
Do thiếu vốn, ngành dệt may đang chọn khâu cuối cùng là may mặc,
đầu tư trước
để tận dụng, khai thác nguồn lao động dồi dào, từng bước tích lũy để
phát triển.
Cùng với việc tiếp tục may gia công xuất khẩu, một số đơn vị đã tìm cách
nâng
dần tỷ lệ hàng xuất thẳng (FOB), đồng thời các xí nghiệp sản xuất phụ
liệu cũng
phát triển khá nhanh. Hàng loạt nhà máy sản xuất: chỉ, khóa kéo, khuy
áo, tấm
bông lót, bao bì... ra đời, đáp ứng 60% nhu cầu cho ngành may.
Nhiều doanh nghiệp may lớn như: Việt Tiến, May 10, Nhà Bè, Ðức
Giang... đã
khẳng định thương hiệu của mình bằng những sản phẩm may mặc chất lượng
cao. Cùng với việc đầu tư đổi mới công nghệ, phát huy năng lực các doanh
nghiệp
dệt như: Phong Phú, Việt Thắng, Thắng Lợi, Thành Công, Nam Ðịnh, 8-3,
Ðông-Xuân,
Ðông Phương, Nha Trang..., ngành dệt may đang triển khai chương trình
đầu tư mới
kéo dài từ năm 2000 đến năm 2020. Mục tiêu của chương trình là đổi mới
công
nghệ, đầu tư chiều sâu, đặc biệt đối với khâu nhuộm, hoàn tất nhằm tăng
năng
suất, chất lượng, hiệu quả, tăng giá trị gia tăng trong các sản phẩm,
nâng tỷ lệ
nội địa hóa lên một bước. Một loạt cụm công nghiệp dệt và nhà máy dệt
mới đã
được xây dựng ở các tỉnh như: Phố Nối B (Hưng Yên), Hòa Xá (Nam Ðịnh),
Hòa Khánh
(Ðà Nẵng), Nhơn Trạch (Ðồng Nai)... Ngành dệt may đang ráo riết thực
hiện các dự
án di dời một số cơ sở dệt lớn như: Dệt Nam Ðịnh, Dệt lụa Nam Ðịnh, Dệt
8-3, Dệt
kim Ðông Xuân, Dệt may Hà Nội... ra khỏi nội thành các thành phố lớn.
Tuy nhiên,
do việc đầu tư vào các khâu nhuộm và hoàn tất còn hạn chế, nên ngành dệt
mới chỉ
đáp ứng được 40% nhu cầu cho ngành may, lượng vải nhập khẩu vẫn khá lớn.
Bước sang thời kỳ tăng tốc, ngành đã liên doanh với Tập đoàn Dầu
khí quốc gia
Việt Nam đầu tư 320 triệu USD xây dựng nhà máy sản xuất xơ pô-li-ét-xte ở
Ðình
Vũ (Hải Phòng), công suất 160 nghìn tấn/năm. Dự kiến, tháng 5-2011, nhà
máy này
sẽ đi vào hoạt động, giải quyết được 40% nhu cầu của ngành dệt, giảm
khoảng 300
triệu USD tiền nhập xơ từ nước ngoài, đồng thời tăng tỷ lệ nội địa hóa
từ 3% đến
5%. Cùng với xây dựng Nhà máy sản xuất xơ Fomosa (Ðài Loan) tại KCN Nhơn
Trạch,
công suất 60 nghìn tấn/năm, việc cung cấp xơ cho ngành dệt về cơ bản sẽ
đáp ứng
đủ.
Vực dậy cây bông
Từ trước đến nay, bông trong nước chỉ đáp ứng được từ 3% đến 5% nhu
cầu của
ngành dệt, hằng năm phải nhập khẩu khoảng 250 nghìn tấn. Năm 2009, số
ngoại tệ
bỏ ra để nhập bông lên tới 385 triệu USD.
Từ nhiều năm trước, ngành dệt may đã chú ý đến vị trí của cây bông
trong cung
cấp nguyên liệu cho ngành dệt. Năm 2003, diện tích trồng bông đạt tới 23
nghìn
ha, thu hoạch được 10 nghìn tấn nhưng đến năm 2008, diện tích bông bị
thu hẹp
chỉ còn ba nghìn ha với hơn một nghìn tấn bông tách hạt. Nguyên nhân
chính dẫn
đến tình trạng này là phương thức trồng bông ở nước ta còn thô sơ và lạc
hậu.
Sản xuất bông chủ yếu dựa vào nông dân với những cánh đồng bông được
trồng tự
phát; việc tưới nước chỉ trông chờ vào trời mưa, vì thế năng suất thấp,
chất
lượng kém. Trong khi đó ngành dệt may phải nhập tới 95% lượng bông từ
nước
ngoài. Các nước sản xuất bông lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Ấn Ðộ, Bra-xin
không
những có trình độ trồng bông công nghiệp cao, mà còn có chính sách trợ
cấp cho
người trồng bông, nên giá bông từ các nước này luôn thấp hơn giá thành
sản xuất
bông ở Việt Nam. Sản phẩm thu mua với giá thấp, cây bông trong nước
không thể
cạnh tranh được với các loại cây trồng khác, buộc người nông dân phải bỏ
cây
bông, trồng cây khác.
Số phận cây bông bắt đầu có sự thay đổi, kể từ tháng 3-2008, khi
Thủ tướng
Chính phủ ra Quyết định số 36/2008/QÐ - TTg phê duyệt Chiến lược phát
triển
ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2015, định hướng 2020, trong
đó có
chương trình phát triển cây bông mà trọng điểm là trồng bông tập trung
có tưới
nước chủ động. Thông qua các giải pháp: tạo các giống bông có năng suất
vượt
trội; đẩy mạnh công tác khuyến nông; chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và đào
tạo
nâng cao trình độ cho cán bộ khuyến nông và nông dân; từng bước cơ giới
hóa và
tự động hóa sản xuất bông để giảm giá thành, nâng cao hiệu quả trồng
bông, đồng
thời thay đổi và bổ sung một số chính sách thích hợp cây bông bắt đầu
"hồi
sinh". Nhiều địa phương đã trồng bông trở lại, đưa diện tích lên 8.600
ha, đạt
năng suất bình quân 12 tạ bông hạt/ha, tăng năng suất gần 20% so với năm
2008.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu khoa học ở Nha Hố, Tập đoàn Dệt May
Việt Nam đã
cho áp dụng hai phương thức trồng bông chủ yếu là: trang trại và trong
nhân dân.
Sau khi tích cực tìm kiếm những vùng đất thích hợp với cây bông, được sự
hỗ trợ
tích cực của các địa phương và các tổ chức liên quan, các công ty bông
đã xây
dựng được bảy dự án trồng bông trang trại. Cho đến nay đã có ba dự án
được triển
khai gồm: 54 ha tại xã Phong Phú, huyện Tuy Phong (Bình Thuận); 192,5 ha
tại xã
Ea Súp, huyện Ea Súp (Ðác Lắc); 20 ha tại xã Lương Sơn, huyện Ninh Sơn
(Ninh
Thuận).
Các công ty bông đang tiếp tục hoàn thiện và đưa vào khai thác ba
dự án mới:
trang trại 200 ha tại xã Ðác Nông, huyện Cư Giút; trang trại 200 ha tại
xã Ðác
Gla, huyện Ðác Min (Ðác Nông); trang trại 120 ha tại huyện Ðiện Bàn
(Quảng Nam).
Ngày 8-1-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 29/QÐ-TTg
phê duyệt
chương trình phát triển cây bông vải Việt Nam đến năm 2015, định hướng
đến năm
2020. Theo đó, đến năm 2015, diện tích trồng bông đạt 30 nghìn ha, trong
đó có
tưới nước chủ động là 9 nghìn ha, sản lượng 20 nghìn tấn bông xơ; đến
năm 2020
là 76 nghìn ha, trong đó có tưới nước chủ động là 40 nghìn ha, đạt sản
lượng 60
nghìn tấn bông xơ. Quyết định này cũng nêu rõ ngân sách Nhà nước sẽ hỗ
trợ kinh
phí để đầu tư xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng, các công trình thủy lợi,
hệ thống
tưới tiêu tại các vùng được quy hoạch trồng bông tập trung cũng như các
cơ sở
nghiên cứu, phòng thí nghiệm chuyên sâu công nghệ cao. Sẽ thành lập Quỹ
bình ổn
giá thu mua bông hạt trong nước để ổn định giá, bảo đảm lợi ích cho
người trồng
bông và phát triển ổn định ngành bông. Các đơn vị, tổ chức sản xuất bông
được
vay vốn với mức lãi suất phù hợp để mua bông hạt sản xuất trong nước cho
người
trồng bông phù hợp với mặt bằng giá thời vụ.
Những chính sách vừa được ban hành sẽ tạo động lực cho người trồng
bông, giúp
ngành dệt ổn định nguồn nguyên liệu đầu vào, tạo chủ động trong sản xuất
từ khâu
bông, xơ, vải để nâng tỷ lệ nội địa hóa lên 50% (2012) và 70%
(2017).
(Theo Nhân Dân)